Nghệ thuật Xòe Thái là loại hình múa truyền thống đặc sắc gắn liền với đời sống của đồng bào Thái vùng Tây Bắc, đặc biệt là tại các tỉnh: Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Yên Bái. Xòe Thái được trao truyền và bảo tồn khá nguyên vẹn qua hàng trăm năm với nhiều hình thái khác nhau.

Xòe Thái là di sản văn hoá phi vật thể của đồng bào Thái và được giữ gìn trong đời sống cộng đồng hàng ngàn năm qua
Không ai biết chính xác điệu xòe Thái có từ bao giờ. Chỉ biết rằng, từ khi sinh ra, mỗi người Thái đã được nuôi dưỡng và lớn lên cùng với điệu xòe. “Xòe” trong tiếng dân tộc Thái nghĩa là điệu nhảy. Nghệ thuật xòe Thái được hiểu là nghệ thuật trình diễn các điệu múa dân gian của dân tộc Thái, với sự tham gia của nhiều người, không giới hạn về số lượng. Từ lâu, nghệ thuật xòe Thái đã đi vào văn học, thơ ca để lưu giữ và mô tả về nét văn hóa giàu bản sắc và vẻ đẹp độc đáo.

Vòng xòe càng đông càng vui nên những nơi không gian rộng thường được chọn là nơi diễn ra những điệu xòe. Với cộng đồng người Thái, bất kể những cuộc vui, từ nhỏ của gia đình, như mừng nhà mới, cưới hỏi; cho đến những lễ hội lớn của bản làng … xòe Thái luôn hiện hữu. Theo quan niệm của người Thái: “Không xòe cây lúa không trổ bông/ Không xòe cây ngô không ra bắp/ Không xòe trai gái không thành đôi”.

Yếu tố tạo nên đặc trưng của xòe chính là âm nhạc. Ngày trước, xòe vòng được mở đầu bằng tiếng hát của một người cất lên, sau đó mọi người vào múa theo nhịp trống chiêng, chũm chọe, tính tẩu. Sau này, các nghệ nhân sử dụng thêm một số đạo cụ, như: Nón, khăn, ống nứa… hình thành nên múa nón, múa khăn với những động tác đơn giản kết hợp với những làn điệu, bài hát để đối đáp, hát tỏ tình trai gái…

Ngày nay, trong những lễ hội, cuộc vui tiếp đón du khách, bạn bè, mọi người thường bắt đầu xòe tay thấp với động tác đơn giản, để bất cứ ai cũng có thể tham gia. Mỗi động tác, mỗi dáng đi, dáng đứng, mỗi bước nhún chân, mỗi kiểu vung tay đều mang những ý nghĩa riêng của nó gắn với lịch sử di cư, cư trú, xã hội, canh tác của người Thái./.
(Nguồn: Báo dân tộc)