Cà ri là món ăn ngon có xuất xứ từ Ấn Độ, được lấy từ chữ “kari” trong tiếng Tamil Ấn Độ, có nghĩa là “nước sốt”. Đây là một món ăn phức tạp có sự pha trộn giữa nhiều loại gia vị và thảo mộc, thường gồm nghệ, cumin, ngò, gừng và ớt. Cà ri thường có dạng sốt và phổ biến ở các tỉnh thành miền Nam Ấn Độ. Món này không kén thức ăn, có thể ăn với bánh mì truyền thống, cơm hay các loại bánh phương Tây khác.
Tại Ấn Độ, gia vị món cà ri phụ thuộc vào vùng miền và đức tin tôn giáo. Ví dụ, người Hồi giáo không ăn thịt heo, người theo đạo Hindu không ăn thịt bò, người Kỳ Na giáo từ chối các loại thực phẩm thực vật có màu đỏ giống máu, như cà chua hoặc củ cải đường. Người ta có thể sử dụng tới 30 loại gia vị để làm ra nước sốt. Chính vì thế mà người Ấn dường như không bao giờ ngán cà ri cả, bởi vì chỉ cần thay đổi một loại gia vị thôi cũng khiến món ăn có mùi khác hoàn toàn.
Cà ri Thái cũng là một món ăn được xem như đặc sản Thái Lan, với những đặc điểm và biến tấu rất riêng. Người Thái gọi món cà ri của họ là “kaeng”, nghĩa là một món nước ăn kèm với cơm, được nấu từ chả tôm, hành củ, ớt và tỏi. Trái với nhận thức của nhiều người, cà ri truyền thống của Thái không có sử dụng nước cốt dừa.
Còn ở Việt Nam, cà ri hiếm khi có vị cay mà có vị ngọt, béo đậm đà do được nấu từ nước cốt dừa. Hầu hết cà ri ở Việt Nam đều có nguyên liệu chính là thịt gà, có các loại khoai. Nước dùng cà ri Việt Nam có kết cấu hơi đặc do bột tan ra từ khoai. Người Việt Nam thường ăn cà ri với bánh mì với bún, đôi khi là các loại miến. Trái với nhiều nước khác, người Việt hiếm khi ăn cà ri cùng với cơm.
Còn cà ri Nhật Bản thường có ba loại rau củ chính là hành tây, cà rốt, và khoai tây, đôi khi có cả đậu hà lan. Cà ri Nhật không kén các loại thịt, có thể dùng thì gà, bò hoặc heo, tuy nhiêm hiếm có loại cà ri với hải sản. Người Nhật ăn cà ri với cơm, mì udon và làm nhân bánh mì, bánh mì nhân cà ri gọi là Karepan. Ngoài ra thì cơm cà ri rất hay được ăn cùng katsudon, một loại thịt heo chiên xù./.
(Nguồn: Tổng hợp)