Mắc mật còn gọi là hồng bì núi, là loại quả phân bố ở một số tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam, có nhiều ở Sơn La, Lạng Sơn, Bắc Kạn. Quả và lá mắc mật đều là gia vị quan trọng góp phần làm nên sự thành công của rất nhiều món ăn nổi tiếng xứ Lạng như lợn quay, vịt quay, măng ớt…
Mùa quả mắc mật thường rơi vào cuối tháng 6, đầu tháng 7 hàng năm. Loại cây này mọc dại trên núi cao hoặc núi đá, đa số ở khu người Tày sinh sống. Những quả mắc mật tươi có mùi thơm đặc trưng cùng vị chua ngọt, thanh thanh, có thể ăn tươi hoặc hái đem về muối với ớt và măng, ướp làm thịt xiên nướng, làm lạp xưởng, lợn quay, gà nướng, om xương, hầm thịt.

Lá mắc mật cũng có nhiều tác dụng với sức khoẻ, kích thích tiêu hóa, bảo vệ gan, có thể sản xuất thành sản phẩm chức năng. Tinh dầu quả mác mật có tác dụng bảo vệ gan, giảm đau, là nguyên liệu để làm thuốc. Lá và rễ cây mắc mật được dùng làm nguyên liệu trong đông y.

Quả mắc mật tươi phơi dưới trời nắng to 3-4 ngày mới khô. Người phơi kỹ phải cả tuần, xong vài ngày sau phải đem phơi lại cho thật ráo. Quả này quý lắm vì cả năm mới có được một vụ quả tươi mà lại không nhiều. Quả mắc mật phơi khô thơm phức, vị chua chua, ngọt ngọt, ngửi thấy cả mùi đường trong quả chín được cô đặc lại.

Mỗi lần ướp thực phẩm, quả mắc mật khô được bỏ cối giã cả hạt, hạt mắc mật bùi bùi thơm béo, ướp với thịt heo hoặc gà vịt, thêm muối, ít tiêu tầm một đến vài tiếng rồi đem nướng, xào, nấu, om. Vị chua ngọt, bùi, thơm nức của hạt mắc mật ngấm đều vào thịt thật ngon. Đó là chưa kể vào tháng 7, vịt nhà ăn ngô ăn thóc béo ú thì lại có món thịt vịt áp chảo với quả và lá mắc mật. Món thịt vịt có da vàng ruộm, giòn tan, bên trong thì thịt mềm thơm nức cũng là đặc sản hấp dẫn với du khách khi đến du lịch ở các bản làng người Tày./
(Nguồn: Vnexpress.net)